Kể từ khi được Ông Trần văn Giáp tình cờ phát hiện từ đống giấy vụn của một gánh hàng vụn phế thải, sau đó được công bố bởi trường Viễn đông Bác cổ,[1] Thiền uyển tập anh trở thành tư liệu cơ sở cho các khảo cứu về lịch sử Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên cho đến thế kỷ 13, cũng như các sinh hoạt chính trị, xã hội, tôn giáo nước ta trong suốt thời gian Bắc thuộc.
Học, nghiên cứu Luật, hành trì Luật, và hoằng truyền Luật, thật không đơn giản, không dễ dàng. Tất nhiên cái học và cái hành nào cũng có chỗ khó; với Luật, cũng có những khó khăn riêng.
Xuân đã qua mà cành mai vẫn còn nở rộ. Gió lay núi lớn mà gió vẫn lặng. Nước dồn sóng cả mà nước không trôi. Bản chất đến và đi, đi và đứng, mất và còn của vạn vật là thế.
Khi đọc lịch sử Đức Phật, có lẽ độc giả đều nhận ra lý do Thái tử Tất-đạt-đa (Sidhartha) quyết chí xuất gia tìm đạo. Đó là tìm con đường giải thoát. Khái niệm giải thoát được sử dụng phổ biến trong Phật giáo và hầu như người học Phật nào cũng trả lời tu tập là để giải thoát. Tuy nhiên, giải thoát cái gì mới là vấn đề cốt yếu. Trong Phật giáo, khái niệm giải thoát sanh tử thường được sử dụng để nói về mục đích cuối cùng của người tu tập Phật pháp. Bài viết sẽ bàn về khái niệm giải thoát sanh tử trong đạo Phật.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có dạy rằng giáo pháp của Ngài sẽ rực rỡ an trú ở thế gian này trong một thời gian thôi, tiếp theo đó nhân loại đi vào thời tượng pháp. Tượng có nghĩa là na ná, là giống như; tượng pháp có nghĩa là giáo pháp giống như chánh pháp, nhưng không hẳn là chánh pháp.
Đời sống của chúng sanh sở dĩ cứ mãi quay cuồng trong sanh tử bởi do nguyên nhân của lòng tham vô tận, của ngọn lửa phiền não sân giận, và sự si mê đắm chìm không lối thoát.
Về phương diện cứu khổ, Bồ-tát Quán-Thế-Âm thị hiện 32 thân, mỗi thân đều thích ứng với tâm cảnh hiện tại và từ đó có muôn ngàn phương tiện để giải thoát khổ nạn cho chúng sanh.
Trong dòng chảy của lịch sử dân tộc Việt dù trải qua bao thăng trầm biến cố Phật giáo vẫn gắn bó cùng dân tộc, chịu chung nỗi đau, chung niềm vui. Trong suốt chiều dài lịch sử từ khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam, thời nào cũng có những bậc Tăng, Ni thạc đức đứng ra giúp đời hộ quốc an dân.
Cùng đọc lại một trích đoạn Đại lão Hòa thượng Thích Trí Quang viết về Bồ-tát Thích Quảng Đức, trích hồi ký của ngài, về một sự kiện ”vô tiền khoáng hậu” - ngọn lửa Bồ-tát Quảng Đức chấn động địa cầu năm 1963.
Trải qua 38 năm được thành lập, Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) đã có những bước phát triển rất tích cực, rõ nét trong tất cả các mặt, đóng góp tích cực cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội, bảo tồn và phát huy những giá trị di sản văn hóa dân tộc.
Trong luận Thuận Chánh Lý, ngài Chúng Hiền đã giải thích ý nghĩa của Duyên khởi là: “Thử hữu cố bỉ hữu, thử sanh cố bỉ sanh, thị duyên khởi nghĩa”. Nghĩa là cái này hiện hữu thì cái kia hiện hữu; vì cái này sinh khởi nên cái kia sinh khởi, đó là ý nghĩa của Duyên khởi.
Khi chiêm bái tranh hoặc tượng Phật tại các chùa hoặc tu viện, chúng ta thường thấy hình tượng của Đức Phật được khắc họa với các tư thế tay rất đặc biệt vừa giống như là một cử chỉ tự nhiên, vừa như thể hiện dấu hiệu của Phật tính. Đó chính là thủ ấn Phật (hay còn gọi là Mudra trong tiếng Phạn).
Họ Thích rất cao đẹp, nhưng phải được nêu lên đối với những bậc tu hành chân chính, đầy đủ đức hạnh đáng cho tín đồ củng phục thì không cần phải xưng họ Thích mà thiên hạ đều tôn là bậc xứng đáng trong giòng họ Thích-Ca vậy.
Trong Đại thừa Phật giáo, bộ pháp Quan Âm hay bộ pháp Đại Bi thuộc về Mạn đà la Thai tạng giới, có các hiện thân tương ứng với bản thệ nguyện khác nhau để cảm ứng.