Bồ-tát, là từ dùng để chỉ cho những ai phát tâm cầu Phật đạo. Cầu Phật đạo thì quả vị tối cùng mà bạn đạt được là thành Phật. Nói cách khác, bạn sẽ đạt được “trí tuệ và đức tướng Như Lai” mà Phật đã có, tức bạn sống được với tri kiến Phật của mình, chẳng phải là tri kiến chúng sinh như hiện nay.
Trong những ngày diễn ra World Cup 2018 vừa qua, cộng đồng thế giới vẫn không ngừng quan tâm đến cuộc giải cứu ở hang Tham Luang, Chiang Rai, Bắc Thái Lan. Đây là cuộc giải cứu có quy mô rất lớn, kéo dài 18 ngày, với hơn 1.000 người trực tiếp tham gia cứu hộ, và khoảng 10.000 người liên quan đến chiến dịch.
Trong đạo Phật có một vị Bồ tát là hiện thân của tình thương. Ngài có tên là Quán Thế Âm. Bồ tát Quán Thế Âm có tình thương quá đổi bao la rộng lớn đến nổi Ngài chẳng nở bỏ mặc ai đau khổ.
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên; Khi sự tỉnh giác trở nên trong trẻo hơn, niềm tin nơi Giáo Pháp tăng trưởng – An trú nơi cô tịch là thực hành của một Bồ Tát.
Chỉ để làm lợi ích cho riêng mình, ngay cả các Thanh Văn và Phật Độc Giác Cũng phải nỗ lực như người cứu đầu mình đang bốc cháy: Nhìn thấy điều này, để làm lợi lạc tất cả chúng sinh, Thực hành hạnh tinh tấn, cội nguồn của những phẩm hạnh tuyệt vời, là thực hành của một Bồ Tát.
Bồ Tát có khi thị hiện là một người tốt để hầu giúp chúng ta vững trãi, không thối thất tâm bồ đề; cũng có khi thị hiện là người ác để giúp kẻ đang bị mắc kẹt trong khi tu tập. Cái tốt hay cái ác của Bồ tát đều mong giúp chúng ta thẳng tiến trên con đường giải thoát.
Người Trung Hoa có thể đã không biết đến Bồ Tát Quán Thế Âm nếu như kinh điển của Phật giáo đã không được dịch qua Hán văn. Kinh điển vì thế được xem như là phương tiện đầu tiên mà từ đó tín ngưỡng thờ phượng Quán Âm được xây dựng và chuyển hóa.
Chúng ta phải nhận ra, mọi lời thuyết pháp của chư Phật đều nhằm chỉ thẳng tâm, không nên bám chặt vào tên và lời, bởi đó chỉ là ngón tay đưa lên, còn đích chúng ta thấy phải là mặt trăng vằng vặc vượt ra khỏi giới hạn của ngón tay kia.
Rõ ràng Bồ tát không hề sợ hãi, bởi Ngài thấy tất cả đều Không. Còn chúng ta luôn lo lắng và sợ sệt vì hầu như thấy tất cả đều có. Chính cái thấy "luôn luôn có" hạn hẹp đó của chúng sanh là nguyên nhân của mọi niềm bất an, sợ hãi.
Để bắt đầu sự thực tập chúng ta phải có một niềm tin chân thành vào trong điều mà Đức Phật đã nói rằng tất cả chúng sinh đồng có Phật tính, khả năng để đạt đến Phật quả.