Bồ đề tâm là phát nguyện và thực hành Bồ tát hạnh để đạt đến giác ngộ trong mong muốn giáo hóa và giải thoát chúng sanh khỏi khổ đau của sanh tử. Như thế Bồ đề tâm gồm hai yếu tố chủ đạo: trí huệ đạt đến giác ngộ và đại bi cứu độ chúng sanh.
Giáo lý Nghiệp và Đạo đức Phật giáo là những vấn đề quan trọng trong đời sống con người, mang tính cộng hưởng sâu rộng đến nền tảng đạo đức tâm linh của mỗi người trong xã hội. Người có đạo sẽ được an vui hạnh phúc; cộng đồng xã hội, quốc gia có đạo đức thì quốc gia đó thịnh lạc.
Kinh Pháp hoa là pháp của Bồ-tát nghe và hành trì, nên không phải là pháp của hàng Nhị thừa, đương nhiên càng không phải là pháp dành cho hàng nhơn thiên. Vì vậy, hàng Nhị thừa và nhơn thiên muốn nghe được kinh Pháp hoa phải phát Bồ-đề tâm mới nghe được.
An lạc, cũng như giải thoát, có nhiều thứ lớp và nếu muốn ta có thể chứng nghiệm được. Có an lạc tức là đã giải thoát, và càng có giải thoát ta càng có an lạc.
Mạng xã hội có nhiều điểm tích cực trong việc kết nối con người với nhau nhưng mặt trái của nó phá hỏng tâm tính thiện của con người, đặc biệt là giới trẻ. Việc ai cũng có thể chửi rủa, phán xét một cách tàn nhẫn, hùa theo, không suy nghĩ và thiếu bao dung, đã làm khẩu nghiệp của chúng ta nặng thêm.
Con đường tu tập, hành trì và mang giáo pháp đức Phật đi vào đời không phải là một con đường bằng phẳng, đầy hoa và cỏ thơm, mà nó còn là một con đường đầy chông gai và bão tố khi tâm mình vẫn chưa vững vàng và có chỗ nương tựa thật sự.
Giáo lý vô thường trong đạo Phật không phải là một lý thuyết, luận thuyết. Nó là một sự thật. Và sự thật này đòi hỏi chúng ta phải thực tập, quán chiếu để thể nhập, chứng ngộ.
Người thế gian thường nói nghiệp chướng sâu nặng. Đây là căn nguyên của nghiệp chướng. Cái thứ hai là Sát sinh. Sát sinh là căn nguyên của oan gia trái chủ. Chúng ta tu hành bị rất nhiều người làm chướng ngại, nhiều việc làm phiền não trở ngại. Đây là lực lượng từ bên ngoài.
Sống bằng chính niệm giúp ta cân bằng được cuộc sống. Có chính niệm ta vững vàng để vượt qua những thử thách, chông gai, cho ta có được lăng kính quán sát thực tại khách quan, tránh phiến diện, chủ quan.
Tôi dùng từ cung kính chứ không dùng từ tôn kính. Tôn kính là nói đến nội tâm, thấy người kia thật sự đáng kính nên mình kính trọng họ từ nội tâm của mình. Còn cung kính thì có khi chỉ là nghi thức, là phép lịch sự tối thiểu dành cho nhau mà một người có giáo dục phải có.
Nghe pháp thường xuyên thì sẽ có được những niềm vui mà không thể có được từ vật chất, không thể có được từ những trò giải trí bên ngoài như ăn, nhậu, câu cá, săn bắn, trượt tuyết, du lịch, mua sắm…
Sách Phật nói kiếp, nếu không nói rõ thì thường chỉ cho đại kiếp. Trong chúng sinh ở ba giới này, dục giới, sắc giới và vô sắc giới, thọ mệnh chúng sinh ngắn nhất là sinh ra chết liền. Thọ mệnh chúng sinh dài nhất là ở 4 cõi Trời thiền của vô sắc giới.
Người xuất gia khi bước chân vào đạo, thường nhớ rõ câu “xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo”. Đi tu thì phải nhớ xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo, đó là điều căn bản của người tu hành. Nếu chúng ta không xả bỏ vật chất, của cải thế gian thì chúng ta làm sao bước chân vào đạo được.