Trích: Nghi báo tiến cúng dường húy nhật Đại lão HT Thích Trí Thủ, HT. Thích Huyền Quang biên soạn (ngày 12.2.Kỷ Tỵ, PL 2532 (1989) tại Hội Phước Quảng Ngãi). Bản thảo viết tay đề Huyền Quang cung soạn, Nghiêm Thức đánh máy vi tính, tháng Bảy, năm 1999.
Dòng kệ truyền thừa của Hòa thượng Chơn Giám Trí Hải, Tổ khai sơn Bích Liên Tự ở tỉnh Bình Định, dù chỉ mới xuất hiện hơn 70 năm trở lại đây, nhưng dòng kệ này cũng đã góp phần làm cho sự phát triển của các Thiền phái Phật giáo tại miền Trung thêm phần khởi sắc và hưng thịnh. Xứng đáng đứng vào vị trí của một Thiền phái trong dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Xiển pháp đời thứ 4, Hòa Thượng Pháp Húy là Tiến Ngự, pháp hiệu là Nhân Từ, đạo hiệu Thích Thanh Viên, thế danh Nguyễn Ngọc Viên, sinh ngày 28 tháng 02 năm 1921 tức ngày 20 tháng Giêng năm Tân Dậu tại thôn Vũ Lăng, Tổng Thủy Cam, tỉnh Hà Đông
Hòa Thượng Thích Tâm Cẩn là một vị Tổ sư đã hết lòng với đạo pháp và dân tộc, đồng thời Ngài cũng là một bậc chuẩn tu xuất trần thượng sĩ, giới hạnh tinh nghiêm, nhập thể lợi lạc quần sinh. Hòa thượng luôn khơi dậy tinh thần đại từ đại bi của Đức Bồ Tát Quan Thế Âm để xả thân cứu đời, hoằng dương chính pháp
Tổ sư Minh Đăng Quang sinh ra (năm Quý Hợi 1923) và lớn lên trong giai đoạn đất nước nói chung và Nam Kỳ Lục Tỉnh nói riêng, công cuộc chiếm cứ, thực hiện kế sách bảo hộ lâu dài của thực dân Pháp đã đi vào thế ổn định, và đang tự tin cho bước phát triển tiếp theo tưởng chừng mạnh mẻ ấy.
Có những vị Tôn túc, khi họ đã vĩnh viễn xa ta, ta mới nhận ra mình đã mất một cái gì quý giá. Bởi ngày thường, những người ấy vẫn sống lặng lẽ, thậm chí khuất lấp đâu đó giữa dòng đời.
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, vị thiền sư ni đầu tiên, người trưởng lão ni tuyệt vời, còn lưu lại bài kệ thị tịch, những lời nói sau cùng, những lời nhắn bảo cuối cùng, những lời nói thật, gây chấn động mãnh liệt nơi nội tâm, thức tỉnh chúng ta trên dòng sinh tử, để lại dấu ấn đậm sâu, thắm đượm mãi trong lòng người đến tận hôm nay và mai sau.
VHPG - Người ta truyền tụng rằng tại Nam Thiên Đệ Nhất Động có một vị sư tu hành đắc đạo. Có lúc sư ngồi thiền cả tháng, không ăn không uống, không lay động để thể hiện trí tuệ dũng mãnh của của Phật.
Thầy sanh năm 1920 tại tỉnh Hòa Bình, Bắc Việt. Vì mang trong người 2 dòng máu Pháp – Việt, nên tên Thầy là Nguyễn Thị Ni và tên tiếng Pháp là Eugénie Catallan. Cha tên Etienne Catallan. Mẹ tên Nguyễn Thị Đắc...
Pháp nạn Phật giáo 1963 bắt đầu ở Huế, với lệnh triệt hạ cờ Phật giáo - một biểu tượng thiêng liêng của Phật giáo - vào đầu mùa Phật đản PL.2507 (1963), đỉnh điểm là vụ thảm sát 8 Phật tử trước Đài Phát thanh đúng tối ngày rằm tháng Tư năm Quý Mão (8-5-1963).
Chính tinh thần ngọn lửa Bồ Tát Thích Quảng Đức đã hun đúc nên sức mạnh của Tăng Tín Đồ Phật giáo trên từng cửa đời tu tập và giữ gìn ngọn cờ ngũ sắc thiêng liêng trong một quảng thời gian khá dài, phần lớn đều chạm mặt với nghịch duyên mang nhiều tên gọi.
Ngay sau khi Thầy Quảng Đức tự thiêu, mọi người đã ngạc nhiên khi hay tin Trái tim của Thầy đã không bị thiêu hủy cùng ngọn lửa mặc dầu đã đưa vào lò thêu, lửa trong lò lên đến 4000°C, lò nung như bị nứt ra nhưng trái tim của Ngài vẫn còn nguyên đó.
Sáng nay, 10-4, tại Văn phòng II TƯGH (thiền viện Quảng Đức, Q.3, TP.HCM), chư tôn đức giáo phẩm Tăng Ni, Phật tử và quan khách đã đến dâng hương tưởng niệm lần thứ 29 cố HT.Thích Trí Thủ và hiệp kỵ chư tôn đức HĐTS GHPGVN viên tịch.
Hòa thượng họ Phạm, pháp danh Thế Long, sinh năm Kỷ Dậu (1909) tại xã Hải Anh, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Hà, trong một gia đình Nho phong thanh bạch có truyền thống thâm tín Phật pháp.