Cuộc Đời Thánh Tăng Ananda (phần 3)

Ðến đây thiết tưởng soạn giả cũng nên cắt nghĩa về thái độ của đức Phật. Ðức Bổn Sư sở dĩ từ chối sự xuất gia của mẫu hậu và các hàng phu nhân trong hoàng tộc

 

 Thánh Tăng Ananda 

Ðến đây thiết tưởng soạn giả cũng nên cắt nghĩa về thái độ của đức Phật. Ðức Bổn Sư sở dĩ từ chối sự xuất gia của mẫu hậu và các hàng phu nhân trong hoàng tộc Thích Ca bởi lẽ gìới luật của các bậc sa môn rất nghiêm nhặt, đời sống phạm hạnh rất thanh đạm, cơ cực, nếu không muốn nói là gần như khổ hạnh đối với những bậc quý phái thuở bấy giờ! Một vị hoàng hậu trở thành một vị tỳ khưu ni để sống giữa rừng vắng, thực phẩm hàng ngày là của bố thí của nhũng kẻ hảo tâm! Các mệnh phụ phu nhân ấy vốn quen sống trong nhung lụa, luôn luôn được hầu hạ thì làm sao biết tự lập, biết tổ chức và biết hạ mình, nhường nhịn nhau trước những cơ cực trong đời sống khất sĩ?! Vã lại, thuở đức Phật còn tại tiền, xã hội Ấn Ðộ lúc bấy giờ được xếp đặt theo quan niệm chính trị của đạo Bà La Môn, một tôn giáo xem địa vị của nữ lưu rất thấp trong xã hội, nhất là nữ lưu ấy là một khất sĩ! Và người đàn bà không có quyền tạo thành một cộng đồng riêng biệt!

Ngoài ra, chúng ta cũng có thể hiểu rằng, đức Thế Tôn từ chối việc xuất gia của mẫu hậu đến ba lần là để thử thách sự quyết tâm của bà cũng như để cho bà còn có thì giờ suy nghĩ lại hầu sau này khi khép mình trong khuôn khổ phạm hạnh, bà sẽ không tiếc rẽ đời sống vương giả nơi hoàng cung!

Trở laị vai trò của A Nan Ða trong vấn đề này. Vào một dịp, A Nan Ða hỏi Phật "- Bạch đức Thế Tôn một người đàn bà nếu dốc lòng muốn xuất gia, lấy ngày tháng phạm hạnh làm kiếp sống, nghiêm trì giới luật và theo gương các bậc Toàn Giác, người đàn bà ấy về sau có thể đắc quả Thánh Nhập Lưu, quả Thánh Nhất Lai hoặc quả Thánh Giải Thoát hay không?"

"Này A Nan Ða! Người đàn bà như thế về sau chắc chắn sẽ được quả Thánh Giải Thoát!"

Nhân đó A Nan Ða liền nhắc lại:

"- Bạch đức Thế Tôn! Nếu một người đàn bà có đủ những yếu tố như thế và người đàn bà ấy lại là Mahà Pajapati Gotamì, dì ruột, kế mẫu mà cũng là người đã nâng niu đức Thế Tôn từ tấm bé! Người đã nuôi dưỡng đức Thế Tôn bằng những giọt sữa của chính mình, khi đệ nhất hoàng hậu Màyà (mẹ ruột của Phật) băng hà. Một người đàn bà như thế có xứng đáng được đức Thế Tôn chấp thuận cho được xuất gia, lấy đời sống không gia đình làm phương tiện để noi gương và gìn giữ giới luật của đức Thế Tôn đã chỉ dạy hay không?"

Ở đây A Nan Ða hiển nhiên đã nêu lên hai lý do rất chính đáng. Lý do thứ nhất, một người đàn bà, nếu có chánh kiến, quyết tâm và trì chí cũng có thể đắc quả Giải Thoát trong kiếp này. Lý do thứ hai, hoàng hậu Màyà đang hội đủ những đức tính đó và bà lại có công lớn trong việc bảo toàn và dưỡng dục hoàng tử hiện thân của đức Phật, thì đối với một hiền mẫu như thế chỉ có một phẩm vị xuất gia trong Chánh Pháp mới có thể đền bù xứng đáng công ơn của bà.

Ðức Phật, trước sự "biện hộ" một cách chân chính của A Nan Ða đã cho phép mẫu hậu Mahà Pajapati Gotamì xuất gia. Ngài sau đó cũng cho phép A Nan Ða thành lập giáo hội nữ gìới, nhưng với những điều kiện gia nhập rất nghiêm nhặt!

Ðọc đến đây, chúng ta có cảm tưởng như A Nan Ða nhờ trí thông minh và khéo nói mà thay đổi được "tư tưởng" của đức Phật. Nhưng trong thực tế, nhất là trong chiều sâu, không ai có thể thay đổi được "ý định" của một bậc Toàn Giác cả. Bởi ý nghĩ của một vị Phật luôn luôn gắn liền với những sự thật rất vi tế. Vấn đề này không phải chỉ xảy đến với đức Phật Thích Ca, mà nó còn đã xảy ra cho các vị Phật trong quá khứ nữa! Và hầu hết chư Phật đều đã cho phép thành lập giáo hội ni giới.

Câu chuyện kế mẫu của đức Thế Tôn, hoàng hậu Mahà Pajapata Gotamì không được phép xuất gia khi chưa có sự can thiệp của A Nan Ða không có nghĩa là đức Phật không biết đến công ơn dưỡng dục của bà. Nhưng sự không chấp thuận một cách vội vã ngay lúc đầu để chứng minh rằng đức Phật là một bậc Toàn Giác và Ngài vốn biết trước mọi sự việc, nhất là biết trước một tai hại về lâu về dài cho Phật Giáo trong tương lai.

Bởi thế, sau đó đức Phật đã chuẩn định 8 điều kiện mà chỉ có những người đàn bà nào đầy đủ đức hạnh và thành tâm nhất mới có thể được chấp thuận để gia nhập ni giới. Tám đìều kiện này còn được xem như những giải pháp ngăn ngừa sự luyến ái giữa hai phái nam và nữ một cách dứt khoát và cần đuợc thi hành tuyệt đối nghiêm chỉnh.

Ðã thế, đức Phật còn ấn định rằng:"Hệ thống ni giới trong giáo pháp của Như Lai sẽ kéo dài một cách đứng đắn trong vòng 500 năm sau thôi"

Lời của dịch giả: Vấn đề tuổi thọ 500 năm của ni giới chỉ tìm thấy trong Tạng Luật (Vinaya Pitaka) chứ không tìm thấy trong Tạng Kinh (Suttanta Pitaka) hay Tạng Luận (Abhidhamma Pitaka). Nhất là không có một chỗ nào trong kinh điển Pali (Phạn ngữ) ghi rõ tuổi thọ ấy kéo dài đến 1000 năm, như một số học giả nói! Hầu hết các nhà phê bình và khảo cứu Phật giáo từ xưa tới nay thường nhắc đến những hiện tượng suy đồi của giáo hội ni giới trong vòng 500 năm, hơn là xác chứng lời Phật nói về vấn đề thời gian. Nếu có sự khác nhau về tuổi thọ của hệ thống ni giới thì đó có lẽ là ý kiến của các tổ sư Phật Giáo sau nầy!

Về sau, khi đức Phật ban bố những nghiêm luật và nội quy cho đời sống ni giới, A Nan Ða đã hỏi đức Phật về phẩm cách của một sa môn xứng đáng hướng dẫn các hàng tỳ khưu ni, đức Thế Tôn đã trả lời rằng:

"- Sa môn nào biết thực hành đúng 8 quy luật mà Như Lai đã chế định là sa môn sẽ thay mặt Như Lai thuyết pháp đến các hàng tỳ khưu ni"

Tức là đức Phật đã không hạn chế vị bổn sư của các tỳ khưu ni nhất định phải là A La Hán, nhưng Ngài chỉ nhấn mạnh ở 8 phẩm cách. Tuy 8 phẩm cách ấy tượng trưng cho một bậc thánh, nhưng nếu một phàm tăng hội đủ những đức hạnh đặc biệt, như A Nan Ða chẳng hạn, cũng có thể hướng dẫn các hàng tỳ khưu ni được.

Tám phẫm cách ấy là:

1- Làm thầy dạy đạo cho các hàng tỳ khưu ni phải đủ đức hạnh (giới luật phải trong sạch).

2- Phải am hiểu Pháp bảo.

3- Phải thuộc lòng giới luật, nhất là giới luật tỳ khưu ni.

4- Phải có khả năng nói pháp vừa thanh nhã (không tục tỉu) vừa rõ ràng, dễ hiểu. Không được lầm lỗi trong sự phát âm (Vì cùng một chữ mà phát âm sai có thể hiểu ra nghĩa khác).

5- Phải biết dạy pháp đến các hàng tỳ khưu ni từ thấp tới cao, làm cho họ từ chưa hiểu đến hiểu rõ.

6- Phải được các hàng tỳ khưu ni đón mừng (tức không làm cho họ sợ) và kính mến! nhất là sa môn ấy khi có một đệ tử tỳ khưu ni phạm lỗi và bị ông rầy, sau đó không nên làm cho người phạm lỗi tiếp tục sợ hãi.

7- Phải là một sa môn từ nhỏ đến lớn chưa bao giờ phạm giới tà dâm.

8- Phải là một sa môn đã thọ cụ túc giới (tức giới luật tỳ khưu) tối thiểu 20 hạ.

(Theo Anguttana Nikàya VIII 52 = Tăng Nhất A Hàm số VIII 52)

Và kể từ ngày ấy, vị tôn giả A Nan Ða là một trong những người đầu tiên có công sáng lập ra hệ thống ni giới, nên ông đã tìm mọi cách để thúc đẩy hệ thống nầy tiến mạnh trên Thánh Ðạo.

Đây cũng chính là lý do khiến cho A Nan Ða đã phải gặp phải một số phiền phức.

Có hai trường hợp các tỳ khưu ni đã bướng bỉnh chống lại đại Trưởng Lão Ca Diếp (Mahà Kassapa) để đòi nghe pháp của A Nan Ða (theo Samyutta Nikàya 16, 10,11 = Tạp A Hàm số 16, 10, 11)

Một trong hai trường hợp đó đã được đề cập qua trong chương hai, với tựa đề "A Nan Ða, một cái tên quen thuộc". Theo sử chép thì kết quả của biến cố ấy là đã có hai tỳ khưu ni khó dạy hoàn tục. Và họ nêu lý do hoàn tục rằng: Họ đã không chịu nổi cảnh có một ông thầy (ám chỉ A Nan Ða) không biết chú ý đến họ như những con người, mà chỉ chú trọng đến họ như hai tâm hồn cần được cứu rỗi!

Nghiêm trọng hơn nữa là trường hợp của tỳ khưu ni tên Kosambi, một cái tên mà A Nan Ða chưa từng quen thuộc. Tỳ khưu ni này một hôm bỗng nhắn lời đến A Nan Ða rằng: Cô ta đang bệnh nặng, cần sự viếng thăm của ông. Sự thật cô đã thầm yêu trộm nhớ A Nan Ða, và chỉ muốn tạo dịp quyến rủ vị sa môn này. A Nan Ða khi biết rõ chuyện ấy, thay vì né tránh, ông đã giải quyết vấn đề một cách rất cao thượng.

A Nan Ða đến thẳng tư thất của tỳ khưu ni si tình kia, rồi ông giảng giải cho cô ta nghe rằng: xác thân này của ông vốn là sự hội hợp của những chất đáng nhờm gớm. Nhất thời, nó chỉ là giao điểm của ba nguồn đau khổ là tham sống, thèm khát, hưởng thụ và ngã chấp. Rồi ông phân tích hậu quả trầm luân của ba nguồn đau khổ ấy, để thức tỉnh người đàn bà tăm tối kia.

Ông nói: thứ nhất hễ ham sống thì cái chết sẽ làm cho ta đau khổ, mà cái chết không thể tránh được! Cái chết được biểu hiện bằng cái già và cái bệnh, mà cái già và cái bệnh cũng không thể tránh được! Khi người ta cảm thấy mình mỗi ngày một già thì người ta tự biết mình càng lúc càng tiến đến chỗ chết! Thứ hai: Hễ thèm khát hưởng thụ thì bất toại nguyện sẽ làm cho ta đau khổ, mà bất toại nguyện là một điều không thể tránh được, vì con người chỉ ngăn ngừa nổi ác nghiệp sắp tới (nhờ tinh tấn tu hành), chứ không ngăn ngừa được ác quả đã tạo! Khi người ta đối diện với một nghiệp quả đã tạo, dù lành hay dữ, sự thèm khát luôn luôn làm cho người ta đau khổ. Nếu là quả lành thì thèm khát mong được có nhiều hơn, còn nếu quả ác thì thèm khát mong được tránh khỏi! Thứ ba hễ ngã chấp thì vô thường sẽ làm cho ta đau khổ, mà vô thường là một định luật không ai có thể tránh được. Mặt trời buổi sáng mọc ở hướng đông rồi buổi chiều lặn ở hướng tây. Ngày qua tháng lại là tượng trưng chính xác nhất của định luật vô thường. Vô thường là yếu tố căn bản để làm cho cái "ngã tạm thời" không bao giờ thực sự tồn tại, chứ đừng nói chi đến việc hiện hữu lâu dài hay trường cửu.

Một bậc xuất gia chân chánh là người biết biến đổi ba ác pháp tham sống, thèm khát hưởng thụ và ngã chấp ấy ra thành ba thiện pháp là: Vô tư trước hai trạng thái sống và chết, không mắc dính trước mọi cám dỗ của dục lạc ở đời và niệm tưởng đến luật vô thường, mọi vật không ngừng biến đổi! Bậc xuất gia ấy sẽ thay thế sự ham sống bằng sự ham thích tịch tịnh, thay thế sự thèm khát hưởng thụ bằng sự ham thích phúc đức để tạo thiện nghiệp và thay thế sự ngã chấp bằng tính vô ngã đại đồng.

Nói cách khác là bậc xuất gia ấy biết đem sự sống của mình hòa với sự sống chung của muôn loài vạn vật, biết đem tính phát triển thiện hạnh của mình đóng góp vào sự tiến hóa chung của tất cả chúng sanh và biết đem cái bản vị tạm thời trong một kiếp người của mình làm ngọn đèn soi thấy lý vô ngã trong cái vòng sinh sinh diệt diệt.

Nghĩa là một bậc xuất gia như thế hằng sống trong Chánh Pháp. Và sự biết mình chính là một sức mạnh hộ trì cho trí huệ sáng suốt để dẹp bỏ mọi tà tư duy, nhất là tình dục, hầu đưa giác linh của họ nhập vào một phẩm hạnh thánh nhân, một phẩm cách nhằm đạt đến giảo thoát mọi đau khổ trong kiếp này và thoát khỏi cảnh tử sinh trong những kiếp sau!

A Nan Ða cũng nhấn mạnh rằng tình dục là nguyên nhân chính cắt đứt con đường giải thoát. Một bậc xuất gia mà để cho tình dục lộng hành trong tâm mình ví chẳng khác nào như người đi thuyền bị chảy nước mà không chịu kịp thời ngăn chận lại. Người đi thuyền đó trước sau gì cũng bị nhận chìm xuống đáy nước!...

Sau khi nghe những lời giảng dạy chân chính như thế, tỳ khưu ni suy tình Kosambi liền thức tỉnh. Cô lập tức rời khỏi giường (nơi mà trước đó chẳng bao lâu cô đã dùng làm chỗ khêu gợi) để đe đầu phủ phục trước mặt A Nan Ða, thành tâm nhận lỗi, rồi sám hối, yêu cầu A Nan Ða tha thứ!

A Nan Ða liền hoan hỉ trước lời sám hối của tỳ khưu ni, và khuyến khích cô rằng:" trong cộng đồng những người sống theo Bát Chính Ðạo, kẻ nào biết nhận lỗi và sám hối ăn năn là người sẽ tự tiến bộ, và sẽ đạt đến mục tiêu giải thoát!" (theo Anguttara Nikàya IV, 159: Tăng nhất A Hàm số IV, 159).

Câu chuyện nầy hiển nhiên đã chứng minh một cách hung hồn về khả năng cảm hóa (bằng thuyết pháp đúng lúc và hợp hoàn cảnh) của A Nan Ða, đối với những kẻ tăm tối, hầu đưa họ ra khỏi vô minh và dục vọng.

Một câu chuyện khác nói về các vương phi của vua Ba Tư Nặc (Pesenadi). Những phu nhân nầy nghĩ rằng:"Khó mà thấy được đức Phật ra đời! Khó mà sinh được làm người. Khó mà có được tinh thần minh mẫn trong một thân thể khỏe mạnh! Ấy thế mà chúng ta đã hội đủ ba điều kiện nầy, chúng ta vẫn không tự do vào chùa nghe pháp được!"

Các vương phi than phiền như thế, vì theo phong tục thuở bấy giờ: Tất cả các chánh cung thứ hậu và thị nữ của một nhà vua phải suốt đời ở trong cung cấm, như chim lồng cá chậu. Họ chỉ được nhìn thấy Ðức Phật hay chư tăng thuyết pháp khi họ tùy tùng theo đức vua, chứ họ không được đi chùa lễ bái bất cứ lúc nào họ muốn như người nam giới.

Mặc dù sống trên nhung lụa, nhưng những sự cao sang không mang lại hạnh phúc tinh thần cho họ. Họ bèn kéo nhau đến yết kiến đức vua, và yên cầu nhà vua thỉnh Phật hay một sa môn, nào đầy đủ phẩm hạnh vào cung thuyết pháp. Vua Ba Tư Nặc dĩ nhiên nhận lời, rồi yết kiến Ðức Phật, trình bày những mong ước của các nàng hoàng hậu.

Ðức Phật nghe xong, thoạt tiên ngài đề nghị một đệ tử tại gia là bậc đã đắc quả A Nan Hàm đi làm công tác đó. Nhưng thánh nhân cư sĩ ấy đã từ chối, vì cho rằng:"Hãy để cho một bậc xuất gia thuyết pháp thì dễ cảm hóa người đời hơn, nhất là người đời ấy là những bậc phu nhân quyền thế!"

Sau đó vua Ba Tư Nặc bèn thuật lại với các nàng phu nhân về lý do từ chối của vị thánh nhân cư sĩ nọ rồi yêu cầu họ hãy hội ý cùng nhau để đề nghị sa môn nào là bậc xứng đáng nhất vào cung thuyết pháp.

Tức thời các phu nhân liền suy nghĩ rằng "chỉ có sa môn A Nan Ða là người gìn giữ kho tàng pháp bão!", rồi họ đồng thanh yêu cầu nhà vua mời A Nan Ða vào cung thuyết pháp.

Ðức Thế Tôn dĩ nhiên đã chấp nhận lời yêu cầu của nhà vua. Và kể từ đó A Nan Ða là người thường xuyên vào cung thuyết pháp, hướng dẫn đạo lý cho chư vị phu nhân của đức vua Ba Tư Nặc.

Một hôm trong cung vua bổng bị kẻ trộm lấy mất một vương miện bằng ngọc quí giá. Ngự lâm quân lục xét khắp nơi, mà vẫn không tìm ra. Tất cả thứ phi, cung tần, mỹ nữ trong cung cấm đều hồi hộp sợ sệt, lo ngại mình sẽ bị nghi oan...

Khi A Nan Ða vào cung thuyết pháp như thường lệ, thì thấy toàn thể "tín nữ hoàng gia" vẻ mặt phiền muộn, không vui tươi nghe pháp như trước nữa. Ông bèn hỏi nguyên nhân thì biết được tự sự.

Bằng một tâm từ bi, A Nan Ða vội đến yết kiến đức vua, và hiến cho nhà vua một phương pháp để vương gia thu hồi chiếc vương miện bằng ngọc quí giá ấy, mà không gì phẩn nộ gây ra ác nghiệp (ý nói hành hình kẻ trộm...). Ðồng thời để tạo lại bầu không khí êm ấm trong hoàng cung, hầu các phu nhân, vương phi có thể yên tâm nghe pháp.

A Nan Ða đã đề nghị với vua Ba Tư Nặc như thế nầy:

Quốc vương phải ra lệnh cho quân lính không được lục xét bất kỳ ai trong cung cấm nữa. Ðoạn hoàng gia cần tuyển chọn, thợ khéo dựng lên một chiếc lều lớn, chỉ có một cửa vào và một cửa ra, tại trung tâm vườn ngự uyển. Trong lều có một chiếc bình đựng nước cổ rất cao. Bất cứ ai làm việc trong hoàng cung, cũng phải vào lều rữa tay trong chiếc bình ấy, để chứng minh sự "thành thật" của mình một lần theo thứ tự, và cấm hai người vào lều cùng một lúc. Ðây chính là cơ hội để cho kẻ tham lam biết ăn năn, có thể dấu chiếc vương miện trong mình rồi đem bỏ vào trong đáy bình nước ấy, mà không sợ bị bắt quả tang, đưa đến sự mất tánh mạng.

Kết quả, chiếc vương miện bằng ngọc của vua đã được tìm thấy trong chiếc bình đựng nước "thành thật" nầy! Và khung cảnh vui tươi của mọi người liền trở lại trong cung cấm! Tất nhiên kẻ trộm không ai khác hơn là một trong những vương phi, đã ăn năn, đem trả lại vật quí, và được tránh khỏi tội chết! (còn chiếc bình cao cổ để chứng minh rằng không ai có thể đụng tay tới đáy để có thể nghi rằng người vào lều sau mình, hay trước mình là kẻ gian cả!)

Diệu kế nầy càng khiến cho tên tuổi của A Nan Ða, vốn đã được nhiều người biết đến trở nên vang danh hơn nữa. Riêng trong hàng ngũ Phật Giáo thì A Nan Ða đã được tất cả huynh đệ khen ngợi như một người biết tái lập sự an vui bằng một phương pháp sáng suốt, cứu rỗi được những ác nghiệp đặc biệt! (theo Jàtaka n.92: Túc sinh số 92).

Và để tạm kết thúc chương nói về "sự liên hệ của A Nan Ða đối với nữ giới "soạn giã xin thuật lại mẫu đối thoại sau đây giữa A Nan Ða với Ðức Phật, không bao lâu trước khi Phật nhập diệt:

"Bạch Ðức Thế Tôn! Sau khi Ðức Thế Tôn nhập diệt, chúng đệ tử phải đối xử với phái nữ, nhất là đối xử với ni giới, như thế nào?"

Phật dạy:

"Các ông đừng nhìn lên thân thể họ!"

A Nan Ða hỏi:

"Nhưng nếu một người nữ đến quá gần một sa môn thì phải làm sao?"

Phật lại dạy:

"Các ông đừng tự mình mở lời trước!"

A Nan Ða tiếp:

"Trường hợp một người nữ đến thật gần một sa môn rồi bắt đầu gợi chuyện?!"

Phật nêu phương pháp

"Khi nghe một người đàn bà nói chuyện, các ông phải tuyệt đối cảnh giác, nhớ lại ý niệm ghê sợ và hổ thẹn tội lỗi, đồng thời xử dụng thiền định, nhất là phẩm cách biết mình!" (theo Digha Nikàya 16: Trường A Hàm số 16)

Những câu hỏi nêu trên đã được chính A Nan Ða nêu lên khi ông chắc rằng: Ðức Phật sắp bước vào Niết Bàn. Và sau đó ông còn nhắc lại những lời sau cùng ấy với mọi huynh đệ trong khi chuẩn bị làm lễ hoả táng.

Trên thực tế, mối liên hệ giữa các hàng sa môn với những tỳ khưu ni, cũng như mối liên hệ giữa các hàng tỳ khưu tăng với những tín nữ, đối với A Nan Ða trong suốt 25 năm trường, dưới sự hướng dẫn của Ðức Phật, đã không là vấn đề đặc biệt cho lắm! Ðiều đáng nhấn mạnh ở đây là A Nan Ða đã cố ý nêu lên những câu hỏi như thế, khi Ðức Phật chưa nhập diệt, là để được nghe chính Ðức Phật truyền dạy những điều thực tế sau cùng.

Vả, A Nan Ða tuy là một sa môn luôn luôn sống trong sự tự biết mình, nhưng những sự khêu gợi của phái nữ, A Nan Ða vốn đã nhiều lần đối diện. Và sự cảnh cáo của Ðức Phật trước khi cho phép thành lập hệ thống Ni Giới, A Nan Ða cũng chưa quên (nhất là lời tuyên đoán của Phật về tuổi thọ của cộng đồng nữ tu trong Phật Giáo chỉ có thể trong sạch khoảng 500 năm sau mà thôi!) Thành thử, đã từ lâu A Nan Ða thầm lo ngại về tương lai của Phật Giáo. Rồi vì lo ngại như thế, nên ông mới đặt ra những câu hỏi nêu trên đến Ðức Phật hầu xem nó, không những như những giáo huấn sau cùng, mà còn tái xác nhận thánh ý của Ðức Phật, về sự hiện hữu của phái nữ trong cộng đồng tăng lữ, để lưu lại một lề luật chánh truyền về sau, cho những người kế nghiệp trông coi hệ thống nữ tu cho đến hết 500 năm đã định.