Những điều người Phật tử cần tránh

Đọc xong kinh Nhân Quả Thiện Ác, chúng ta đã nhận ra rằng, mọi sự may hay rủi, hạnh phúc hay khổ đau xảy đến cho con người là kết quả của hành động thiện hay ác mà con người đã làm trong quá khứ hoặc gần hoặc xa;

Đọc xong kinh Nhân Quả Thiện Ác, chúng ta đã nhận ra rằng, mọi sự may hay rủi, hạnh phúc hay khổ đau xảy đến cho con người là kết quả của hành động thiện hay ác mà con người đã làm trong quá khứ hoặc gần hoặc xa; chứ không do bất cứ một vị thần linh nào ban phước giáng họa. Hiểu như vậy là chánh kiến, tin như vậy là chánh tín; ngược lại là tà kiến, tà tín.

 
 


Dù đức Phật chỉ dạy nhân quả rõ ràng như thế, nhưng trong sinh hoạt của các giới Phật tử hiện nay vẫn còn tồn đọng những tín ngưỡng phi Phật giáo, như: cúng Sao giải Hạn, thờ Thần Tài, Thổ Địa, thờ Trang Ông, Trang Bà, trị Điên trừ Tà; cúng Quan Sát, Thành thai; sai Đồng, sai Vía, sai Phan, xin Xăm, bói Quẻ; xem tử vi, chỉ Tay; đốt Vàng Mã cho người Âm; dùng Nộm, Ảnh thế cho sinh mạng, tin đau ốm là do người Âm bắt v.v. Đây là nhừng niềm tin, những hành động hoàn toàn không phải của đạo Phật.
 
Dưới đây, cúng tôi xin phân tích và giải thích một số niềm tin nêu trên để làm tiêu biểu:
 
I-Tin đau ốm là do người âm bắt:
 
Thông thường, khi một người bị bệnh có những hiện tượng bất thường, như: khi mệt, khi khỏe, khi nóng, khi lạnh; khi mê khi tỉnh; khi ăn uống được, khi không ăn uống được, hoặc bệnh dằng dai nhiều ngày hay sáng bệnh chiều lành, đêm đau ngày khỏe v.v. đã dùng nhiều loại thuốc mà không thấy giảm bệnh. Trong trường hợp này, những thân nhân và chính người bệnh thường nghĩ rằng, bệnh này là do người âm bắt bớ; như Tần cây, Thần am, hay do Tổ tiên, Ông bà v.v.
 
Do nghi như vậy, tin như vậy nên gia đình người bệnh đã xin Xăm, bói Quẻ ở Đền này, hầu bóng ở Am kia, mỗi nơi một cách, hoặc do những vị Ngoại càng Ngoại cảnh quở phạt, hoặc do Ông bà nội thân trách giận. Mỗi lần xem bói là một lần khấn đảo, một lần trả lễ, và bệnh nhân được ban đeo bùa này, uống nước phép nọ … nhưng kết quả thông thường là “ Tiền mất tật lưa” ( mang)
 
Nơi đây, chúng tôi không bàn đến việc tốn kém tiền bạc và bệnh lành hay không lành, mà xác định rằng: Một phật tử chân chánh, có chánh tín, chánh kiến thì không bao giờ hành động như vậy. Bởi lẽ, người Phật tử chân chánh là người sống trung thực với lời đức Phật dạy. Sự trung thực đầu tiên và tối thiểu nhất là sống đúng với lời thề nguyện khi phát tâm quy y Tam bảo. Ba câu thề nguyện ấy là:
 
- Đệ tử quy y Phật rồi, không còn quy y Trời, Thần, Quỷ, Vật.
 
- Đệ tử quy y Pháp rồi, không còn quy y tà giáo của các ngoại đạo.
 
- Đệ tử quy y Tăng rồi, không còn quy y tà Sư, ác đảng.
 
Đây là những lời thề nguyện làm khởi điểm cho tiến trình tu tập, và cũng là lý tưởng sống, lập trường sống của một người Phật tử. Nếu Phật tử nào giữ được sự thệ nguyện tối thiểu ấy, thì tương lai chắc chắn sẽ hưởng được phước báo, là không bị đọa vào tam đồ ác đạo. Phước báo ấy cụ thể như sau:
 
- Đã quy y Phật thì không bị đọa địa ngục.
 
- Đã quy y Pháp thì không bị đọa ngạ quỷ.
 
- Đã quy y Tăng thì không bị đọa súc sanh.
 
Một người phật tử chỉ cần giữ được chữ tín về sự thề nguyện này đã được phước báo lớn lao như thế, huống gì tu tập thêm các pháp khác, như Bố thí, Trì giới, Thiền định v.v. Trái lại, một phật tử không tuân thủ lời thề nguyện ấy mà tin tưởng, nương tựa vào Trời, Thần, Quỷ, Vật … là tự đánh mất phước báo của mình trở thành người bội tín, người vọng ngôn với Tam bảo, và cuối cùng không tránh khỏi đọa lạc vào ba đường ác.
 
Vậy thì, một phật tử chánh tín khi chính mình hoặc người thân bị bệnh cần giải quyết như thế nào?
 
Đã là người chánh tín hẳn nhiên là người có chánh kiến. Nên hiểu rằng, con người là một trong sáu loài chúng sanh ( Trời, A tu la, Người, Súc sanh, Ngạ quỷ và Địa ngục) đang bị sanh tử luân hồi, đang bị sanh, lão, bệnh, tử chi phối, thì bị quả báo ốm đau là việc tất nhiên, không thể không có.

Nói khác hơn, do hiểu rằng, con người đã và đang tạo ra các nhân; cho nên con người đã và đang thọ nhận kết quả của các nhân ấy. Đau ốm là kết quả do nhân sát sanh hại mạng gây nên, đó là sự thật.
 
Nhờ hiểu rõ nhân quả như vậy, nên người phật tử chánh tín cũng dựa vào nhân quả để giải quyết sự ốm đau đó. Tức là, thực hiện nhân quả hiền thiện để hóa giải những nhân quả xấu ác.

Cách giải quyết ấy, nói đơn giản có hai hướng:
 
1/ Hướng cụ thể: Trong đạo Phật, muốn giải quyết việc gì thì cần phải nắm rõ nguyên nhân của nó, khi ấy mới chọn được phương pháp giải quyết thích ứng. Cho nên, việc tổng và trước tiên là tìm hiểu để xác định, người đang ốm là thân bịnh hay tâm bịnh.
 
- Nếu là thân bịnh: Thân bịnh là do tứ đại hay sinh lý không điều hòa, muốn chữa trị có thể theo Tây y hoặc Đông y. Bệnh nhân đau ở bộ nào thì nên tìm đến những thầy thuốc chuyên trị về bộ phận ấy. Thầy thuốc với sở trường của mình sẽ tìm ra nguyên nhân gây bệnh và sẽ cho thuốc triệt tiêu nguyên nhân gây bệnh ấy, khi nguyên nhân gây bệnh bị triệt tiêu thì bệnh lành.
 
- Nếu tâm bệnh: Tâm bệnh là do sự xáo trộn hay bị sốc về tình cảm hoặc tư tưởng. Muốn chữa trị cần đưa người bệnh đến các nhà tâm lý học hay những người có kinh nghiệm về tâm lý. Những người này sẽ có cách tìm ra nguyên nhân gây bệnh, đồng thời sẽ có phương án giúp bệnh nhân chế ngự  và hàng phục nguyên nhân ấy, giúp bệnh nhân trở lại bình thường.
 
Cần nói thêm rằng, thân và tâm luôn tương quan mật thích với nhau; cho nên khi tâm bệnh thì sẽ làm cho thân bệnh và ngược lại. Do vậy, như đã nói ở trên, khi chữa bệnh cần nắm rõ gốc của bệnh là thân hay tâm để điều trị cho chính xác.
 
2/ Hướng siêu hình: Theo đức Phật dạy, mỗi người đã từng trôi lăn trong tam giới, hết sanh rồi tử, tử rồi sanh, trải qua vô số kiếp từ quá khứ lâu xa đến hiện tại. Với chuổi thời gian dài vô số ấy, xét về tội ác mà con người đã làm thì không thể kể xiết; nghĩa là con người đã tự dựng lên vô lượng nhân ác độc, đẻ rồi tự mình đã và đang thọ nhận những quả báo xấu xa, đau khổ. Đơn giản để nói, quả báo ấy có hai mặt:
 
-  Mặt nội tại: Đại khái đã nói, tất cả những nhân ác độc đã làm trong quá khứ sẽ dẫn đến hai quả báo xấu ác cho người ấy trong hiện tại.
 
Thứ nhất là chánh báo xấu ác, tức thân thể và tâm lý gặp nhiều trở ngại, gian nan; như hay bị đau ốm, buồn rầu, sân hận, sự nghiệp lận đận v.v. Thứ hai là y báo xấu ác, tức môi trường sinh sống thiếu thốn, bức bách đủ điều; như thời tiết khắc nghiệt, thực phẩm tệ hại, mọi người xung quanh điều ác dữ v.v.
 
- Mặt ngoại tại: trong vô lượng nhân ác độc đã làm trong quá khứ, có rất nhiều tội ác về sát sanh hại mạng. Những kẻ bị giết luôn mang oán hận và tìm mọi cách để báo thù người đã giết mình. Những kẻ rình rập để báo thù ấy gọi là “oan gia trái chủ”. Và, nếu có cơ hội họ sẽ báo thù để trả hận bằng nhiều cách; như gây bệnh tật, gây chết oan, chết yểu hay gây thân bại danh liệt, tán gia bại sản v.v.
 
Vậy, phương pháp giải quyết hai quả báo xấu ác nội tại và ngoại tại này như thế nào?
 
- Nếu là một Phật tử chánh tín, chánh kiến thì hiểu rất rõ phương pháp giải quyết này. Đó là, bệnh nhân cần thành khẩn phát tâm bái sám, sám hối những tội lỗi đã làm trong quá khứ, nguyện không dám tái phạm nữa, nhất là tội sát sinh hại mạng.

Sự bái sám này không phải chỉ một lần, hai lần mà phải nhều lần, nhiều bao nhiêu thì kết quả càng lớn bấy nhiêu. Song song với sự bái sám, bệnh nhân còn phải thành tâm tu tập các phước đức khác, như phóng sanh, bố thí, ấn tống Kinh điển, giữ gìn giới luật đã thọ v.v.

Bên cạnh, người thân bệnh nhân cũng phải chân thành trợ duyên những việc làm ấy cho bệnh nhân để sớm có kết quả. Cần chú ý rằng, trọng tâm của những việc làm trên là sự chí thành, và tất cả việc làm ấy cần được Tam bảo chứng minh; sau dó hồi hướng cho hết thảy chúng sanh, nguyện cầu tất cả mọi oán kết đều được giải tỏa và mọi báo chướng, nghiệp chướng, sở tri chướng đều được tiêu trừ.
 
Tóm lại, cách giải quyết mọi bệnh tật của một Phật tử là áp dụng giáo lý Nhân quả vào cuộc sống. Tức là luôn luôn thực hiện mọi điều lành để hóa giải, trừ diệt các điều ác đã làm trong quá khứ.

Thực hành hai hướng: cụ thể và siêu hình nói trên để trị bịnh, chính là áp dụng giáo lý Nhân quả, chính là vâng lời đức Phật dạy. Một Phật tử có hướng sống như thế, là người chánh tín, sẽ đón nhận được phước báo tốt đẹp trong hiện tại và mai sau.
 
II. Tin Xăm, Quẻ:
 
Đây là niềm tin rất phổ biến ở nhân gian, trong đó không ít người là những Phật tử.
 
Xăm thì có xăm Quan âm, xăm Thánh Mẫu, xăm Quan Thánh (Quan Công)… Quẻ thì có quẻ Khổng Minh, quẻ Bát Quái, quẻ Âm Dương (hai đồng tiền một đen một trắng)… Xăm quẻ là do con người tự đặt chứ không phải tác phẩm của một vị Thánh, vị Thần nào cả.
 
Xin xăm, bói quẻ được sử dụng trong phạm vi khá rộng rãi và được những người tin tưởng thực hành nhiều nhất vào tháng giêng mỗi năm. Người xin xăm quẻ, trong trường hợp gia đạo bình an, thân tâm khỏe mạnh là để cầu biết sự thịnh suy, tốt xấu của dòng họ, gia đình và bản thân…trong năm ấy như thế nào; trong trường hợp gia đạo bất an, thân tâm bệnh tật là để biết đang bị vương vấn ở chỗ nào hay bị người Âm quở trách để khấn vái, trả lễ v.v.
 
Với niềm tin này, nhất là đối với người Phật tử thì rất sai lầm, sai với lời dạy của đức Phật, sai với sự thật nhân quả và làm trái ngược lại với lời thệ nguyện khi quy y Tam bảo (đã nói ở điểm I); đông thời, chẳng giải quyết được điều gì mà còn bị rơi vào tà tín, tà đạo.
 
Khách quan để nói, những người xem xăm, đoán quẻ thỉnh thoảng họ cũng đoán đúng những sự kiện đã và sẽ xảy ra của gia chủ. Tuy nhiên sự đoán đúng đó cũng chẳng đem lại lợi ích thật sự nào cho gia chủ cả, huống gì phần nhiều là đoán sai. Kết quả của sự đoán đúng hay sai này chỉ dẫn đến những nỗi buồn lo, vui mừng cho những ai thiếu chánh kiến mà thôi.
 
Với người có chánh kiến, chánh tín thì sẽ thấy rõ rằng, cuộc đời của mỗi người là sự biểu hiện sự vận hành nhân quả của chính họ. Mọi hiện tượng xảy ra trong đời sống dù đau khổ hay vui sướng, dù may mắn hay rủi ro; chính là quả báo mà họ đã tạo ra trong quá khứ hoặc gần hoặc xa (tự tác tự thọ). Do vậy, sự đoán đúng hay sai ấy chẳng thay đổi được gì sự thật của nhân quả; ngược lại, cả người đoán xăm quẻ lẫn gia chủ cùng dẫn nhau vào con đường sai lầm, tà đạo.
 
Nơi đây cũng cần nhấn mạnh rằng, những người xem Xăm, đoán Quẻ ấy là ai? Phải chăng họ là Phật, Bồ-tát? Và, sách Xăm, Quẻ có phải do đức Phật dạy không? Có phải là kinh điển của đạo Phật không?

Cho nên, đã là phật tử thì phải nghe lời đức Phật dạy và sống đúng với lời dạy ấy, mới chuyển bệnh tật, khổ đau…thành mạnh khỏe, an lạc v. v. Nội dung chuyển xấu thành tốt này đức Phật đã dạy trong kinh Nhân Quả Thiện Ác. Tức là, hãy gieo nhân tốt trong hiện tại nhằm hóa giải nhân xấu đã làm trong quá khứ để  được thọ hưởng quả báo tốt lành trong hiện tại và tương lai.

III. Tin Sao, Hạn:
 
Niềm tin sao hạn này vốn không nằm trong giáo lý đạo Phật, nhưng từ lâu đã có mặt trong sinh hoạt của hai giới Phật tử tại gia và xuất gia. Vậy, nguyên nhân của vấn đề này là như thế nào?
 
Đại khái, nguyên nhân niềm tin sao hạn xâm nhập vào đạo Phật như sau:
 
-Theo các sách viết về lịch sử Phật giáo Việt Nam, các tác giả đều thống nhất rằng, các triều đại Đinh (968-980)-Lê (Tiền Lê, 980-1009)-Lý (1010-1225)- Trần (1225-1400) là thời vàng son của Phật giáo, các Vua Quan đều dựa vào giáo lý đạo Phật để cai trị đất nước và hướng dẫn nhân dân. Tuy vậy, thời Lý-Trần vẫn chủ trương “Tam Giáo Đồng Nguyên”- (đạo Phật, đạo Lão và đạo Nho có cùng một gốc). Thế rồi, đến cuối đời nhà Trần (cuối thế kỷ XIV), kế tiếp là triều đại nhà Hồ (1400-1407)([20]), nhà Hậu Lê (1428-1527) và nhà Nguyễn([21]), là giai đoạn Phật giáo bị suy thoái và suy thoái trầm trọng. Hiện tượng suy thoái này đại khái có ba nguyên nhân:
 
1/ Nhà Minh cướp đọat mọi Kinh điển của Phật giáo đem về Trung Hoa và truyền bá các tập quán, các tín ngưỡng của họ vào Việt Nam.
 
2/ Vua Quan Việt Nam coi trọng Nho giáo, các nhà Nho có cơ hội bài xích Phật giáo.
 
3/ Về nội bộ Phật giáo, hàng xuất gia thì thiếu các bậc cao Tăng thạc đức, thực tu thật chứng; hàng tại gia lại thiếu các Cư sĩ thâm tín Phật pháp, hộ trì Tam bảo.
 
Đây là ba nguyên nhân chính làm Phật giáo suy yếu kéo dài trên sáu trăm năm và còn ảnh hưởng cho đến bây giờ. Đồng thời cũng là thời gian mà những tín ngưỡng, những hình thức sinh hoạt của Lão giáo, Nho giáo và các tập tục thế gian pha trộn vào Phật giáo. Những hiện tượng pha trộn ấy rất nhiều, việc tin sao hạn và các điểm chúng tôi dẫn chứng ở trước chỉ là những điểm tiêu biểu mà thôi.
 
Trở lại vấn đề sao hạn, niềm tin sao hạn là tin rằng, trên trời có chín vị Thần sao luân phiên quản lí sinh mạng con người. Chín Thần sao ấy có tên là: La Hầu, Thổ Tú, Thuỷ Diệu, Thái Bạch, Thái Dương, Vân Hớn, Kế Đô, Thái Âm và Mộc Đức. Kể từ mười tuổi trở lên, mỗi năm con người sẽ bị chi phối bởi một vị Thần sao. Tuy vậy, dù cùng một tuổi nhưng Thần sao của Nam và Nữ lại khác nhau. Chẳng hạn, cùng năm mươi ba tuổi, nam là sao Thái Âm mà nữ là sao Thái Bạch.
 
Thông thường, những người tin theo sao hạn, năm nào gặp sao La Hầu, Kế Đô và Thái Bạch thì họ rất lo sợ vì cho rằng, ba sao ấy rất hung dữ và xui xẻo. Tuy nhiên, theo sách Sao Hạn, trong chín sao thì chỉ có sao Môc Đức là hiền lành. Điều này được nêu rõ trong bài Cửu Tinh Thi như sau:
 
La Hầu chánh, thất kiến hung tai.
 
Thổ Tú, Thuỷ Diệu tứ, bát ai.
 
Thái Bạch, Kim Tinh ngũ nguyệt kỵ.
 
Thái Dương lục, cửu thất tiền tài.
 
Vân Hớn nhị, bát đa hao tổn.
 
Kế Đô tam, cửu mạng thương thai.
 
Thái Âm ngũ, thập nhất ưu hoạn.
 
Mộc Đức thập nhị quý nhân lai.
 
Nghĩa là:
 
- Gặp sao La Hầu thì tháng giêng, tháng bảy sẽ gặp tai họa hung hiểm.
 
- Gặp sao Thổ Tú, Thuỷ Diệu thì tháng tư, tháng tám sẽ bị buồn khổ, bi thương.
 
- Gặp sao Thái Bạch thì tháng năm sẽ bị mọi người ganh ghét, đố kỵ.
 
- Gặp sao Thái Dương thì tháng sáu, tháng chín sẽ bị hao, mất tiền của.
 
- Gặp sao Vân Hớn thì tháng hai, tháng tám sẽ bị nhiều hư hao, tổn hại.
 
- Gặp sao Kế Đô thì tháng ba, tháng chín thân mạng sẽ bị đau ốm hoặc bị họa lây.
 
- Gặp sao Thái Âm thì tháng năm, tháng mười một sẽ bị sầu lo, hoạn nạn.
 
- Gặp sao Mộc Đức thì tháng mười hai sẽ được cái quý nhân thăm viếng.
 
Tức là, năm nào ai gặp sao gì chiếu mạng thì phải kiêng cử các tháng bị rủi ro, như bài thơ đã xác định.
 
Thêm nữa, ngoài việc mỗi người hàng năm có một Thần sao quản lý, bên cạnh còn phụ thuộc vào cung nào trong tám cung và thuộc hạn gì trong các hạn. Tám cung này chính là Bát quái trong Kinh Dịch, đó là: cung Càn, cung Khảm, cung Cấn, cung Chấn, cung Tốn, cung Ly, cung Khôn và cung Đoài. Còn các hạn thì rất nhiều, như hạn Huỳnh tuyền, hạn Thái sơn, hạn Mộc ách, hạn Tán tận mộc ách, hạn Cát lợi mộc ách, hạn Nhập mộ kim lâu, hạn Toán tận nhập mộ, hạn Thái sơn kim lâu và hạn Huỳnh tuyền nhập mộ v.v.
 
Ví dụ: khi một người hai mươi tuổi thì có sao, cung và hạn như sau:
 
Nam: sao Thổ Tú, cung Khảm, hạn Toán tận kim lâu.
 
Nữ: sao Vân Hớn, cung Ly, hạn Cát lợi kim lâu.
 

Ở trên, chúng tôi trình bày sơ lược về ba điểm Sao, Cung và Hạn trong sách Sao Hạn mà các vị cúng sao căn cứ vào đó làm cơ sở để xác định sao hạn cho các gia chủ, khi họ đến xin “Dâng sao giải hạn” đầu mỗi năm. Nói về nội dung lễ cúng sao thì khá phức tạp. Đại khái có các điểm sau: Tuyên sớ nói lên tên, tuổi, sao, hạn của các gia chủ trước điện Phật, sau đó một người đại diện gia chủ giải hạn.

Khi giải, một tay của người đại diện nắm các đồng tiền trắng đen[22]tiêu biểu cho những vị Thần hạn, tay kia nắm một con dao. Vị cúng sao sẽ đọc tên từng vị Thần hạn ấy, cuối mỗi tên có chữ “giải”, như Thái sơn thần quan “giải”, Toán tận mộc ách thần quan “giải” v.v. Khi nghe tiếng “giải”, tay gia chủ nắm đồng tiền thả xuống một đồng, tay nắm dao chém một nhát từ phải qua trái (nếu nắm dao tay phải).

Sau khi vị cúng sao đọc hết tên các Thần hạn, liền kiểm điểm các đồng tiền, nếu các đồng tiền mặt trắng và đen tương đương, như vậy là các Thần giải hạn đã tha thứ hạn ách cho gia chủ. Còn các Thần sao, tuỳ mỗi Thần mặc áo quần màu gì thì cúng áo quần (bằng giấy) màu ấy. Như sao Thái Bạch thì cúng áo quần màu trắng v.v. Ngoài ra, mỗi nam-nữ gia chủ phải có hai ảnh để vị cúng sao viết tên, tuổi, sao, hạn; sau khi cúng xong đem đốt để thế mạng (thế mạng sanh nhơn).
 
Sở dĩ, chúng tôi trình bày khá nhiều về nội dung và hình thức cúng bái sao hạn như thế là để quý Phật tử có cơ sở nhằm đối chiếu với kinh điển đạo Phật. Nếu một Phật tử có học giáo lý, có đọc kinh luật thì sẽ trực giác thấy rằng, những ngôn từ, phương tiện và hình thức trong sự cúng bái sao hạn, hoàn toàn không có trong tam tạng Kinh điển đạo Phật; mà niềm tin ấy chính là tin thần quyền, tin định mệnh (tin họa phúc và sinh mạng của con người đã được định sẵn bởi Thần, Thánh).
 
Do thế, giả như một Phật tử mà tin sao hạn từ mình rơi vào rừng rậm tà kiến, đời này lại tạo thêm những nhân xấu ác, tà vạy để tương lai gần hoặc xa chịu những quả báo đen tối khổ đau hơn nữa. Đã là Phật tử tại sao không tin nhân quả? Không chuyển nhân quả? Không nương tựa Tam bảo?

Không nương tựa chư Phật, chư Bồ-Tát? Chư Phật, Bồ-Tát là những bậc đầy đủ đại trí tuệ, đại từ bi và sáu thứ thần thông, là những bậc hoàn toàn giải thoát, mà Phật tử không tin tưởng, không nương tựa, lại nương tựa vào Trời, Thần, Quỷ...là những chúng sanh đang bị luân hồi sanh tử trong tam giới, là thế nào?
 
Trong các Kinh đức Phật dạy về Nhân quả hay Nghiệp, Ngài đã phân tích và xác định rất rõ ràng về con người. Như kinh Trung Bộ ghi: “Tất cả chúng sanh đều có cái nghiệp của riêng mình”. Một Kinh khác, Đức Phật xác định cụ thể hơn: “Ta là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào đã làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy”.[23]Sự thật này cũng được Tổ sư Phật Âm (Buddhaghosa) ghi trong tác phẩm Atthasaølini rằng:
 
“Do nghiệp mà thế gian luân chuyển,
 
Do nghiệp mà chúng sanh tồn tại”.
 

Hay:
 
“Chính nghiệp dẫn dắt thế gian này”.
 

Chư Phật, chư Tổ đã trãi lòng từ bi lo lắng, thương xót chỉ dạy cho chúng ta tận tâm như thế; về phía chúng ta, tin và thực hành lời dạy của các Ngài hay không là trách nhiệm của mỗi chúng ta. Nếu ai tin thì sẽ hoán chuyển nhân quả (hay nghiệp) xấu ác thành nhân quả hiền thiện, để tiến dần trên con đường giải thoát, hầu đạt được mục đích sau cùng. Ngược lại, ai không tin là tự trói mình trong thế giới tà đạo, để tiếp tục chịu muôn vàn khổ đau trong tam giới.

IV. Tin Vàng Mã:
 
Nội dung của vàng mã thì bất cứ ai cũng biết. Đại khái, đó là vật dụng làm bằng giấy được lấy mẫu từ những đồ đạt thật mà con người sử dụng hàng ngày; như áo quần, giày dép, rương trắp, mũ dù, xe cộ, tiền bạc v.v.
 
Thế thì vàng mã xuất phát từ đâu?
 
- Nguồn gốc xuất phát và hình thành vàng mã như sau: Theo tài liệu[24]mà chúng tôi tham khảo, cho biết rằng: Vào các triều đại trước và sau Tây lịch, các bộ lạc vùng châu Á nói chung và nhà Hán Trung Hoa nói riêng (206 trTL-220 TL) đều tin: “Sau khi chết, mọi người đều trở thành quỷ và có cuộc sống như con người”. Niềm tin này được phổ biến sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân và trở thành tập quán của mọi người.

Do vậy, khi có người chết, người trong gia đình đem vàng bạc thật, đồ dùng thật chôn theo người chết để người ấy tiêu dùng. Có những bộ lạc, Vua Chúa còn chôn cả người sống và gia súc nữa. Tập quán chôn vật dụng thật này kéo dài đến thời đại nhà Đường (618-906 TL).

Vua Quan nhà Đường thấy rằng, đem vàng bạc và vật dụng thật đem chôn cho người chết  hay tế lễ thì quá phí phạm, trong khi người sống lại rất thiếu hụt. Do vậy, Vua Đường Huyền Tôn (713-762 TL) đã ra lệnh dùng đồ giấy để thay thế.

Trong thời điểm này, người Trung Hoa lại tiếp nhận thêm một niềm tin mới từ Ấn độ truyền sang. Đó là, tin có một vị Hoả Thần tên là Agui, với nhiệm vụ đem những lễ vật đã đốt trao cho người chết (người Âm). Với niềm tin này, vấn đề dùng đồ giấy (vàng mã) của người Trung Hoa đã có cơ sở, nên càng phát triển sâu rộng hơn đến các nước lân cận.
 
Riêng nước Việt Nam, niềm tin này được người Trung Hoa truyền vào khá sớm; song, dân Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh và rộng phải kể từ cuối thời nhà Trần (thế kỷ thứ XIV), tiếp đến là các đời nhà Hồ, nhà Hậu Lê, nhà Nguyễn và tồn tại đến bây giờ.
 
Giai đoạn này chính là thời kỳ Phật giáo Việt Nam bị suy đồi trầm trọng (đã nói ở điểm III). Vì vậy, không chỉ niềm tin vàng mã xen vào trong sinh hoạt Phật giáo mà còn nhiều niềm tin tào tạp khác nữa (đã nói ở điểm III).
 

Qua các dữ kiện dẫn đến sự hình thành vàng mã vừa nói, chắc chắn một Phật tử chánh tín, chánh kiến sẽ không bao giờ tin tưởng được. Vì rằng:
 
- Tin “tất cả người chết đều thành quỷ” là sai với luật nhân quả nghiệp báo. Bởi lẽ, nhân và quả luôn cùng một tính chất, không tạo nhân quỷ thì làm sao thành quỷ?
 
- Tin “loài quỷ có cuộc sống như con người” cũng sai với luật nhân quả. Bởi lẽ, chánh báo như thế nào thì y báo như thế đó. Làm thân quỷ thì có cuộc sống của quỷ, chứ làm sao lại giống cuộc sống của con người? Và, nếu tin như thế, thì cuộc sống của các loài cầm thú cũng giống cuộc sống của con người hay sao?
 
Với hai niềm tin sơ khởi đưa đến sự có mặt của vàng mã vừa nói, hầu như tất cả những người tin dùng vàng mã hiện nay, chẳng mấy ai biết đến. Tổng quát để nói, người tin dùng ngày nay chia thành hai quan niệm:
 
- Thứ nhất: Họ nghĩ rằng: “Xưa bày nay làm” chỉ đơn giản như thế.
 
- Thứ hai: Tất cả người chết đều sống chung tại Âm phủ. Đốt vàng mã là tiếp tế đồ dùng cho họ.
 
Là một Phật tử chánh tín, chánh kiến sẽ nhận rõ hai quan niệm này cũng chẳng trong sáng, hiền thiện gì. Hạng người quan niệm “Xưa bày nay làm” là những người thiếu tư duy, thiếu thẩm định...nên không biết cái gì đúng, điều gì sai...cuộc sống sẽ rơi vào thụ động, khó gặp chánh đạo, khó được phước lành..

.Về quan niệm thứ hai cũng sai với luật nhân quả. Như kinh Nhân Quả Thiện Ác dạy rằng, đời này tạo nhân địa ngục, khi chết người ấy sẽ bị rơi vào địa ngục; đời này tạo nhân súc sanh, khi chết người ấy sẽ bị đọa làm súc sanh; đời này tạo nhân người, khi chết người ấy sẽ được sanh làm người v.v. Tức là: “Tất cả chúng sanh đều có cái nghiệp của riêng mình” mà đức Phật đã dạy trong kinh Trung Bộ.
 
Do vậy, tin tất cả mọi người khi chết đều về chung sống tại Âm phủ là niềm tin không có cơ sở đúng đắn, phi nhân quả, phi chánh pháp. Xét về việc đốt vàng mã cũng sai lầm tương tự như thế. Thứ nhất, một người sau khi chết, tuỳ theo nghiệp lực của mình để có một sinh mạng mới hoặc khổ, hoặc vui trong tam giới, thế thì làm sao họ nhận được vàng mã ấy! Thứ hai, chưa có một chỗ nào trong kinh điển Phật giáo nói rằng, có một loài chúng sanh luôn luôn sử dụng tro tàn của vàng mã cả.
 
Tóm lại, các điểm được trình bày trên đã xác định quá rõ ràng rằng, việc sử dụng vàng mã không phải là việc làm và niềm tin của người Phật tử. Đã là đệ tử của đức Phật thì phải dựa vào Phật pháp để thẩm định mọi việc đúng hay sai trong cuộc đời; đồng thời, phải tin, phải thực hiện những điều mà đức Phật đã dạy, có như vậy mới đúng ý nghĩa của chữ “Phật tử” mà chính mình đã tự phát nguyện thọ nhận.
 
Bốn vấn đề: “Tin đau ốm do người âm bắt; tin xăm, quẻ; tin sao hạn và tin vàng mã” mà chúng tôi vừa trình bày ở trên, chỉ là tiêu biểu cho hàng trăm vấn đề tương tự, được phát xuất từ các tôn giáo khác, hoặc những tập quán nhân gian của xứ này, nước nọ; đã pha trộn vào trong Phật giáo với một quá trình trên sáu trăm năm.

Suốt thời gian ấy, không ít người trong hàng đệ tử của đức Phật, tại gia cũng như xuất gia, không hiểu cố ý hay vô tình, họ đã tin, đã làm những điều phi Phật giáo ấy. Do thế và chính thế, nên đa số dân chúng cho rằng, những tín ngưỡng đó là của Phật giáo. Đây chính là tình trạng mà Khế Kinh đã dạy: “Sư tử trùng trung, thực sư tử nhục” (chính vi trùng trong thân sư tử, ăn thịt sư tử).
 
Thế nên trong hiện tại, nếu Phật tử nào không tránh được những niềm tin tà vạy ấy thì đáng tiếc!
 
NAM MÔ TỒI TÀ PHỤ CHÁNH TÔN THIÊN BỒ TÁT MA HA TÁT
 

 


Hồng Đức Tự

 
Mùa An Cư-Đinh Hợi
 
Nguyện đem công đức này,
 
Trang nghiêm tịnh độ Phật,
 
Trên đền bốn ơn nặng,
 
Dưới cứu khổ muôn loài,
 
Những ai được thấy nghe,
 
Đều phát tâm Bồ đề,
 
Hết một báo thân này,
 
Đồng sanh về cực lạc.
 
 

 
[1]Kỳ Hoàn (Anàtapindika): còn gọi là Kỳ Viên
 
[20]Trong giai đoạn này, khi nhà Hồ diệt, nước ta rơi vào sự đô hộ của nhà Minh-Trung Hoa, từ năm 1414-1427. Tức là đến đời Hậu Lê.
 
[21]Trong giai đoạn này có nhiều hình thái lịch sử, như Nam Bắc phân tranh, mặc dù nhà Hậu Lê vẫn tồn tại nhưng đứng đầu hai miền Bắc, Nam là hai vị chúa: Trịnh và Nguyễn, rồi đến Tây Sơn và nhà Nguyễn.
 
[22]Đồng tiền trắng đen: Đồng tiền tiêu dùng trong các triều đại Vua Chúa, được người cúng bái sơn một mặt màu trắng.
 
[23]Kinh Tiểu nghiệp phân biệt-Trung Bộ III-trang 481-ĐTKVN.
 
[24]1) Sử Trung Quốc- Nguyễn Hiến Lê-Văn Hoá xuất bản 1997.
 
  2) Tín ngưỡng Việt Nam-Toan Ánh-Hoa Đăng xuất bản 1969

 
Theo: tangthuphathoc