An lạc, cũng như giải thoát, có nhiều thứ lớp và nếu muốn ta có thể chứng nghiệm được. Có an lạc tức là đã giải thoát, và càng có giải thoát ta càng có an lạc.
Người Phật tử đi đến chùa cầu nguyện và thực hành theo đúng đạo lý nhân quả như thế chính là cầu nguyện đúng với tinh thần của Phật pháp. Như thế thì sẽ không còn lo là cầu mong mà không được nữa, gọi là “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng”, ở trong cửa Phật cầu gì sẽ được như vậy.
Sống bằng chính niệm giúp ta cân bằng được cuộc sống. Có chính niệm ta vững vàng để vượt qua những thử thách, chông gai, cho ta có được lăng kính quán sát thực tại khách quan, tránh phiến diện, chủ quan.
Nhiều người muốn thực hiện sự chuyển hóa bản thân, nhưng tập khí nhiều đời cứ đưa đẩy họ vào con đường luân lạc, vì không khéo tổ chức một cuộc sống khuôn khổ, nề nếp.Vì thế, lúc sắp nhập niết bàn, Đức Phật đã dạy các đệ tử phải lấy giới luật làm Thầy.
Bất nhị là không hai. Thế nào là không hai ? Không hai là không lạc vào hai cực đối đãi của một vấn đề . Bản chất sự vật là Thái cực nội bao âm và dương trong nó, trong âm có dương, trong dương có âm .
Tôi được hầu chuyện với Thiền Sư Thích Nhất Hạnh về đề tài:
1/ Tình thương đích thực.
2/ Những lợi lạc của khổ đau.
3/ Làm sao mình thoát ra khỏi tình huống khổ đau nhờ đem chánh niệm nhìn sâu vào sự việc để thấy, hiểu ra, để chấp nhận và thương được.
Mục lục
1- Mười hai nhân duyên và viễn ly
2- Tâm giác ngộ (bodhicitta)
3- Tính không
4- Năng lực Văn Thù gia trì
5- Đối thoại với Đại sư Thánh Nghiêm (Sheng-yen)
Nếu chúng ta muốn là một hành giả đầy đủ phẩm chất của tantra thế thì chúng ta phải trau dồi tâm vị tha giác ngộ hay tâm đại bi hay tâm bồ đề. Một khi tâm vị tha chân thành hiện hữu trong dòng suối tâm của chúng ta, chúng ta đã ở trên con đường tích tập (tư lương đạo) của Đại thừa Phật giáo.
Anh ta không đi tìm hạnh phúc ở bên ngoài mình. Khi chúng ta trông cậy vào địa vị, tiền bạc, vào vợ hay chồng của mình để mang lại hạnh phúc, thì ta sẽ không bao giờ có hạnh phúc. Vì chúng ta nương tựa vào những gì không phải của mình.
Trong khi phương diện chung của Phật giáo và những lĩnh vực này là một vùng đầy hoa trái của sự đối thoại liên văn hóa đương đại, nó cũng là một vấn nạn để đồng hóa Phật giáo với tâm lý học hay tâm lý trị liệu và Phật giáo với triết học hay tôn giáo.
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.