Kỷ niệm 40 năm ngày cố Trưởng lão HT. Thích Tịnh Khiết viên tịch

40 năm ngày cố Trưởng lão HT.Thích Tịnh Khiết viên tịch. Sáng 3-3-2013 (22 tháng Giêng năm Quý Tỵ), tại tổ đình Tường Vân (phường Thủy Xuân, TP.Huế), chư Tăng Ni trong sơn môn pháp phái Tường Vân đã trang nghiêm, trọng thể tổ chức Lễ tưởng niệm 40 năm ngày Đức Trưởng lão HT.Thích Tịnh Khiết, Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN viên tịch.


Đức Trưởng lão HT. Thích Tịnh Khiết
 

Đến dâng hương đảnh lễ tưởng niệm có HT.Thích Đức Phương, Phó Pháp chủ HĐCM GHPGVN, Trưởng ban Trị sự tỉnh Thừa Thiên Huế; chư tôn giáo phẩm Ban Trị sự GHPGVN tỉnh, các huyện, thị xã, trú trì các tổ đình, tự viện, tịnh xá, tịnh thất, niệm Phật đường trong tỉnh nhà và các tỉnh, thành khác như TP.Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Lâm Đồng, Nghệ An, Quảng Trị...

 
Đức Trưởng lão HT.Thích Tịnh Khiết (1891-1973) thế danh Nguyễn Văn Kỉnh, sinh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão (nhằm ngày 17-12-1891) tại làng Dưỡng Mong, xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế.
 
Năm 15 tuổi (Bính Ngọ 1906), ngài xuất gia với Tổ sư Thanh Thái Phước Chỉ (1858-1921), trú trì chùa Tường Vân.

Năm 19 tuổi (Canh Tuất 1910). Hòa thượng được đặc cách thọ Tỳ-kheo Bồ-tát giới tại Giới đàn chùa Phước Lâm ở Hội An, tỉnh Quảng Nam với pháp danh Trừng Thông, pháp tự Chơn Thường.

Năm Canh Thân 1920. ngài đắc pháp, được bổn sư ban pháp hiệu Tịnh Khiết và năm Quý Dậu 1933. Hòa thượng đảm nhận chức vị trú trì chùa Tường Vân.

 

Chân dung của Ngài vào thập niên 1930
 

 Năm Mậu Dần 1938, sau khi xây dựng xong chùa Hội quán Từ Đàm, An Nam Phật học Hội cung thỉnh ngài kiêm nhiệm trú trì và Chứng minh Đạo sư cho Hội.

Năm Canh Thìn 1940, Sơn môn Tăng-già Thừa Thiên cung thỉnh ngài làm Giám đốc Đạo hạnh cho Viện Cao đẳng Phật học tại chùa Báo Quốc. 

Đầu năm Tân Mão 1951, ngài chứng minh và chủ tọa Hội nghị thành lập Giáo hội Tăng-già Trung Việt tại chùa Linh Quang, Huế.
 
Năm Kỷ Hợi 1959, Đại hội kỳ III của Tổng hội Phật giáo Việt Nam họp tại chùa Ấn Quang, Sài Gòn, chư tôn đức đại biểu đồng cung thỉnh Hòa thượng đảm nhận ngôi vị Hội chủ.
 
Những năm sau đó, những cuộc đàn áp, khủng bố liên tiếp xảy ra, nặng nề nhất là ở các tỉnh thuộc duyên hải miền Trung và cao nguyên Trung Phần ngày càng nghiêm trọng, vào ngày 2-2-1962 (ngày 6-1-Nhâm Dần), Hòa thượng đã ký văn thư gởi Tổng thống Ngô Đình Diệm và Quốc hội Việt Nam Cộng hòa, với khuyến cáo “Tôi muốn tránh cho lịch sử dân tộc một chấm đen, đồng thời muốn ngăn ngừa một tai họa cho quốc gia, khi mà hàng Phật tử thấy cần bảo vệ đúng mức tôn giáo của mình!”.

 

Năm 1970


Trên cương vị lãnh đạo tối cao, bằng trí tuệ, tài năng và đức độ cao thâm của một bậc Tăng-già ở tuổi 72, ngài đã dấn thân không mỏi mệt để dẫn dắt phong trào, vẫn luôn đồng cam cộng khổ cùng chư tôn đức Tăng Ni và Phật tử, lèo lái phong trào đến ngày thành tựu.
 
Đầu năm Giáp Thìn 1964, Hội nghị của 11 giáo phái và hội đoàn Phật giáo tại Sài Gòn, ngài được Hội nghị cung cử lên ngôi vị Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN.
 
Ngài viên tịch vào lúc 20 giờ 45 phút, ngày 23 tháng Giêng năm Quý Sửu (nhằm ngày 25-2-1973), trụ thế 82 tuổi đời và 63 hạ lạp.

 
Nguyên An - Song Sang